Các ví dụ thực tế Throffer

Throffer được ứng dụng thực tiễn trong các nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực, và đồng thời là cả ở môi trường không phải học thuật, chẳng hạn như ngành cảnh sát và các toà án ở Anh.[47]

Phúc lợi lao động

Lý thuyết throffer được áp dụng thực tế trong viện trợ có điều kiện, ví dụ như hệ thống phúc lợi lao động. Theo nhà triết học và lý luận chính trị Gertrude Ezorsky, việc từ chối cung cấp phúc lợi cho những đối tượng không chịu lao động là một dạng throffer;[48] triết gia chính trị Robert Goodin cũng có quan điểm tương tự: ông coi phúc lợi có điều kiện là một loại throffer.[49] Daniel Shapiro, một triết gia chính trị khác, cho rằng nửa đề nghị của phúc lợi lao động nằm ở "lợi ích đạt được nếu chấp nhận học thêm kỹ năng, kiếm việc làm, ngừng phá hoại và những điều tương tự", còn nửa đe dọa thì ở "việc cắt giảm hoặc từ chối chi trả phúc lợi nếu không chấp nhận nửa đề nghị sau một khoảng thời gian".[36] Goodin nghĩ mức độ hấp dẫn của nửa đề nghị sẽ giảm bớt vấn đề đạo đức ở nửa đe dọa. Nhờ vậy, nhưng khi và chỉ khi người nhận phúc lợi có thể sống mà không cần khoản tiền này, và do đó sẽ đưa ra một quyết định đích thực (chấp thuận hoặc từ chối), hệ thống phúc lợi lao động mới trở thành một throffer đúng nghĩa. Nếu buộc phải nhận trợ cấp để sống, người đó sẽ không thực sự có quyền chọn lựa, và theo Goodin, cũng sẽ không thể từ chối throffer. Điều này loại bỏ yếu tố giảm nhẹ về mặt đạo đức thường có trong throffer. Ông dự đoán những người ủng hộ hệ thống phúc lợi sẽ phản ứng kiểu gia trưởng với lập luận trên (trái với ý kiến của họ), bằng cách tuyên bố rằng dù có được tự do lựa chọn hay không, đối tượng vẫn sẽ có lợi nếu chấp thuận đề nghị cung cấp việc làm hoặc giáo dục.[50]

Shapiro phản bác Goodin: ông nghi ngờ giả định các đối tượng sẽ phải chết đói nếu từ chối throffer phúc lợi xã hội. Ông cũng khẳng định:

  • Trong những hệ thống lao động công, đối tượng chỉ bị cắt hỗ trợ tài chính nếu từ chối throffer;
  • Ngược lại, ở các hệ thống tư (các tổ chức từ thiện hoặc viện trợ có điều kiện phi chính thể), ngoài nhóm vận hành hệ thống phúc lợi lao động, còn có nhiều nhóm khác tồn tại song song.
  • Trong cả hai loại hệ thống, đối tượng đều có thể nhờ gia đình và/hoặc bạn bè giúp đỡ.

Vì những nguyên do trên, ông không cho rằng đối tượng không thể từ chối throffer như Goodin nghĩ. Lập luận phản bác thứ hai (quan trọng hơn, theo Shapiro) là các nhà nước phúc lợi không có biện pháp cưỡng chế sẽ không phản ánh được cách những người lao động không phụ thuộc vào phúc lợi tự chịu trách nhiệm cho đời sống cá nhân. Ông cho biết một người lao động thường sẽ thấy tình hình tài chính của mình tồi tệ hơn nếu ngừng làm việc; tuy nhiên, phúc lợi công vô điều kiện giúp những lao động phổ thông như vậy không rơi vào tình cảnh tiêu cực hơn, và do đó việc xác định họ có sẵn sàng tự chịu trách nhiệm về đời sống của mình hay không trở nên bất khả thi.[51]

Ivar Lødemel và Heather Trickey, những người biên tập "'Lời Đề nghị Bạn Không thể Khước từ': Phúc lợi lao động trong Quan điểm Quốc tế", những chương trình phúc lợi lao động dựa nhiều vào tính ép buộc sẽ trở thành throffer. Họ dẫn ra một ví dụ cụ thể (mô hình Đan Mạch), và lập luận rằng hệ thống phúc lợi lao động cần phải sử dụng những đề nghị có tính chất ép buộc; dù bên ngoài, họ chỉ nhận lời đề nghị cung cấp việc làm hoặc giáo dục, nhưng vì bị phụ thuộc vào khoản viện trợ (thứ sẽ mất đi nếu họ từ chối), trên thực tế, họ không còn lựa chọn nào khác. Khía cạnh ép buộc cho thấy các nhà hoạch định chính sách nghĩ rằng cần phải ép buộc một số đối tượng nhận phúc lợi nhất định chấp nhận đề nghị cung cấp việc làm. Chỉ cơ hội làm việc có lương hoặc tham gia vào các chương trình lao động không thôi là không đủ để khiến các đối tượng tự nguyện chấp nhận đề nghị. Việc ép buộc giúp họ có thể tái hòa nhập với thị trường lao động, và đôi khi được coi là một dạng "chủ nghĩa gia trưởng kiểu mới".[52] Hai tác giả trên cho rằng sự ép buộc này rất đáng lo ngại, và đưa ra vài lập luận phản bác nó:

  1. Tính cưỡng chế ảnh hưởng đến quyền lợi của những người không đồng tình; điều này có thể khiến nó bị phản đối, và tự phản đối chính nó, hoặc sẽ dẫn đến hệ quả không mong muốn.
  2. Lợi ích cần phải vô điều kiện mới thực sự tạo thành một mạng lưới an toàn xã hội.
  3. Tính cưỡng chế làm suy yếu phản hồi của các đối tượng, vì vậy, đối với họ, các chương trình dù tốt hay kém cũng đều như nhau;
  4. Việc ép buộc có thể góp phần hình thành xu hướng phản kháng ở các đối tượng.[52]

Tù nhân và sức khỏe tâm thần

Nhà tâm lý học pháp y Eric Cullen và thống đốc nhà tù Tim Newell cho rằng các tù nhân sẽ đối mặt với throffer khi được thông báo phải thừa nhận tội lỗi trước khi nhận đề nghị đặc xá[53] hoặc được chuyển đến một nhà tù mở. Họ trích dẫn một ví dụ: một tù nhân nhận dối tội để được chuyển đến nhà tù mở, nhưng sau đó lại cảm thấy không thể nói dối thêm nữa; hắn thú nhận với thống đốc, và bị chuyển lại về nơi có an ninh cao nhất.[47] Những tội phạm tình dục thì nhận được throffer đề nghị trả tự do nếu chấp nhận điều trị, và đe dọa nâng mức án nếu từ chối. Cullen và Newell cho rằng việc throffer đặt các tù nhân, kể cả những người vô tội sau kháng cáo, vào tình huống tiến thoái lưỡng nan là rất đáng lo ngại.[54] Alex Alexandrowicz, một tù nhân oan, và nhà tội phạm học David Wilson đã phân tích vấn đề throffer tội phạm tình dục trên mặt báo.[55] Wilson thấy hoàn cảnh khó khăn của những người bị cầm tù oan: phải đối mặt với throffer đề nghị giảm án nếu "chịu thừa nhận tội lỗi". Ông cũng lưu ý rằng vì rất ít khi có ai để tâm đến quan điểm của các tù nhân, nên vấn đề thường sẽ không được chú ý.[56]

Tương tự như trên, điều trị liệu pháp đối với những người không phạm tội có vấn đề về sức khoẻ tâm thần có thể được xem xét về mặt throffer. Trong dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tâm thần cộng đồng, những bệnh nhân có vấn đề về tâm thần đôi khi sẽ được hỗ trợ dịch vụ xã hội, như về tài chính hoặc nhà ở, nếu chấp nhận thay đổi cách sống và khai triệu chứng để cấp phát thuốc. Bác sĩ tâm thần Julio Arboleda-Flórez coi những throffer này là một dạng cơ chế hoá xã hội và lo ngại rằng chúng:

...có nhiều ý nghĩa liên quan đến các cơ chế cưỡng chế, từ ngầm cắt giảm sự tự do đến quy kết tính nhạy cảm. Cắt giảm tự do bao gồm đe dọa quyền tự chủ cá nhân, gây nên nỗi sợ viễn cảnh mất tự do, gia tăng mức độ phụ thuộc cũng như sự thiếu tin tưởng vào khả năng quản lý kinh doanh để sống, và do đó cũng làm tăng cảm giác bất lực. Sự quy kết tính nhạy cảm thì phủ nhận nguyên tắc bình đẳng giữa các đối tác, cấu thành và xâm phạm quyền riêng tư, cũng như tác động đến các quyền tích cực cá nhân.[57]

Kinh doanh

The nhà nghiên cứu quản lý John J. Clancey, quản lý theo khoa học có thể liên quan đến việc sử dụng throffer. Dù phương pháp trả lương theo sản phẩm đã được áp dụng từ thời Trung Cổ, nhưng phải đến khi kỹ sư cơ khí Frederick Winslow Taylor kết hợp phương pháp này với quản lý hợp lý, một hệ thống tân tiến hơn mới hình thành. Sau đó, năng suất được tiêu chuẩn hóa, và các quản lý đã có thể throffer nhân viên:

  • Đề nghị: Nếu năng suất làm việc vượt quá tiêu chuẩn, họ sẽ được trả nhiều hơn;
  • Đe dọa: Những người không đủ chỉ tiêu sẽ phải chấp nhận mức lương thấp hơn.[58]